Báo chí Trung Quốc thừa nhận VĐV bóng bàn nước ngoài ấn tượng nhất chính là tay vợt bóng bàn người Thụy Điển Jan-Ove Waldner, tay vợt huyền thoại đã từng qua VN dự giải quốc tế các tay vợt xuất sắc thế giới cách đây gần 20 năm. Dưới đây là những cột mốc đáng nhớ trong sự nghiệp của anh.
Mùa hè 1970:
Jan-Ove, lúc đó mới là cậu bé 5 tuổi những khát vọng chiến thắng đã luôn trào dâng. Câu nói cửa miệng của cậu là “Tôi sẽ đánh bại tất cả”. Nền tảng sự nghiệp vĩ đại của anh bắt đầu từ đây.
Mùa hè 1974:
Liên đoàn bóng bàn Thụy Điển mời cậu bé Waldner tới dự một trại huấn luyện tại Örebro – một nơi cách xa nhà cậu ở Stockholm tới 250 km. Cậu bé Jan-Ove tỏ ra không vui vì phải xa nhà đến vậy. Vào cuối tuần, mẹ cậu, Marianne, thường đến đón cậu nhưng ngạc nhiên là Waldner lại từ chối về nhà vì “Ngày mai sẽ có một giải đấu, con không muốn bở lỡ”.
Mùa thu 1977:
Ngày 5-10, 3 ngày trước sinh nhật lần thứ 12 của mình, Jan-Ove trình làng tại giải vô địch Quốc gia Thụy Điển. Nạn nhân khốn khổ là Dennis Pettersson, cho đến mãi sau này Dennis vẫn không nuốt trôi được thất bại trước một cậu bé chỉ cao có 140 cm.
Mùa hè 1980:
Jan-Ove Waldner lần đầu tới Trung Quốc. Lúc đó cậu đã nổi danh trên khắp thế giới là thần đồng và có vinh dự thi đấu trước 12,000 khán giả tại giải Thượng Hải mở rộng. Jan-Ove đã thi đấu với hàng loạt tay vợt trẻ của Trung Quốc và thua rất nhiền trận. Nhưng cậu học được nhiều từ những thất bại này, kĩ thuật, chiến thuật được cậu ghi nhớ. Trong lòng cậu luôn tâm niệm “rồi tôi sẽ cho thấy khả năng của mình, sẽ đánh bại bọn họ”.
Mùa xuân 1982:
Tại giải vô địch châu Âu tổ chức ở Budapest, cậu bé 16 tuổi đã đánh bại một trong những thần tượng của mình. Trên đường tiến vào chung kết, cậu đã đánh bại cựu VĐTG Stellan Bengtsson và ngôi sao của nước chủ nhà Tibor Klampar. Lúc đó, Waldner chỉ được xếp thứ 30 tại châu Âu. Tại chung kết, cậu đã buộc người đồng hương Mikael Appelgren phải chiến đấu hết mình mới có được chiến thắng. Waldner, tay vợt trẻ nhất lọt vào chung kết giải vô địch châu Âu, dẫn 2-0 nhưng đã thua sát nút tại séc quyết định và trở thành trung tâm của sự chú ý. Istvan Korpa, HLV đội Đức phát biểu "Tôi chưa bao giờ được chứng kiến một tay vợt toàn diện đến thế. Anh ấy séc vít đa dạng, thay đổi tốc độ trận đấu một cách hoàn hảo và luôn sáng tạo trong suốt trận đấu”.
Mùa xuân 1984:
Jan-Ove lần đầu vô địch giải European Top 12 tổ chức tại Bratislava. Nhưng năm sau này anh đã 6 lần vô địch, 4 lần á quân- một thành tích đi vào lịch sử.
Mùa xuân 1987:
Thụy Điển bị Trung Quốc cho đo ván tại giải vô địch thế giới tổ chức ở New Delhi. Waldner bị cúm và luôn thi đấu trong tình trạn sốt 40° C. Tuy vậy anh vẫn hạ được 2 tay vợt cực mạnh là Chen Longcan và Teng Yi tại tứ kết và bán kết đơn nam. Xi Enting, nhà vô địch thế giới năm 1973 đã phải lắc đầu thán phục: "Làm sao có thể thắng được một tay vợt luôn tấn công mọi đường bóng và luôn thành công?”. Trận chung kết, Waldner dẫn trước 1 séc và 9-3 trong séc 2 trước nhà ĐKVĐ Jiang Jialiang, nhưng thành công đã không đến. Tay vợt 21 tuổi hứa: "Thời của tôi rồi sẽ đến".
Mùa xuân 1989:
Waldner giữ đúng lời hứa. Ở Dortmund, anh trở thành nhà vô địch thế giới, Trung Quốc cực mạnh nhưng Thụy Điển dưới sự lãnh đạo Jan Ove đã thắng 5-0 tại chung kết. Anh vô địch đơn lần đầu khi thắng người đồng hương Jörgen Persson.
Mùa hè 1992:
Waldner vô địch Olympic Barcelona, và các chuyên gia đều đồng ý rằng: "Một tay vợt đến từ hành tinh khác ". Nhà vua Thụy Điển Carl Gustaf, đã nhiệt thành cổ vũ cho Waldner. Jan-Ove trở thành người hùng Quốc gia như kiểu tay vợt tennis Björn Borg (một trong những người bạn thân nhất của anh). Một loạt các tay vợt tài năng của Trung Quốc và thế hệ mới của bóng bàn châu Âu trình làng nhưng Jan-Ove đã đánh bại tất cả..
Mùa xuân 1997:
Anh vô địch đơn nam thế giới lần thứ 2 với một kỷ lục, không thua một séc nào. Cho đến nay, đây là thành tích đánh đơn ấn tượng nhất tại một giải WTTC. Trong trận chung kết gặp cây vợt mới 21 tuổi, Kinh Kong Samsonov, Waldner đã hoàn toàn làm chủ trận đấu và thắng dễ dàng 3-0.
Mùa hè 2004:
Tại Olympic Athens 2004, vào đêm 18-8, tay vợt 39 tuổi này đã loại 3 hạt giống hàng đầu người Trung Quốc ở cả nội dung đơn và đôi. Tân Hoa Xã bình luận: Waldner hoàn thành "nhiệm vụ bất khả thi". Anh đánh bại tay vợt số 2 thế giới Ma Lin và giành suất vào tứ kết. Trước đó, anh đã cùng đồng hương J. Persson loại đôi Kong Linghui/Wang Hao để có mặt ở tứ kết đôi nam. Chung cuộc, anh đứng hạng 4 đơn nam và đây quả là 1 kỷ lục với 1 " ông lão" 39 tuổi.
Mùa hè 2005:
Sau giải WTTC 48th Shanghai 2005, huyền thoại J.O Waldner đã quyết định nói lời chia tay với bóng bàn trên cương vị là một tuyển thủ. Anh đã để lại nhiều tiếc nuối với người hâm mộ Thụy Điển khi không con được xem " Mozart bóng bàn " thi đấu dưới mầu cờ sắc áo quê hương.
Nhìn bảng vàng thành tích sự nghiệp của anh chúng ta choáng ngợp, nhìn anh thi đấu chúng ta kinh ngạc không thể tin được - Người ngoài hành tinh!.
World championships
1983 Silver medal in team competition
1985 Silver medal in team competition
1987 Silver medal in single, silver medal in team competition
1989 Gold medal in single, gold medal in team competition
1991 Silver medal in single, gold medal in team competition
1993 Bronze medal in single, gold medal in team competition
1995 Silver medal in team competition
1997 Gold medal in single (21-0 in games), silver medal in double
1999 Bronze medal in single
2000 Gold medal in team competition
Olympic Games
1988 Final 8 in single, final 8 in double
1992 Gold medal in single, first round in double
1996 Final 16 in single, final 8 in double
2000 Silver medal in single, final 16 in double
2004 Fourth in single, final 8 in double
European Championships
1982 Silver medal in single
1984 Silver medal in double
1986 Gold medal in double, gold medal in team competition
1988 Gold medal in double, gold medal in team competition
1990 Gold medal in team competition
1992 Silver medal in double, gold medal in team competition
1994 Silver medal in single, silver medal in team competition
1996 Gold medal in single, gold medal in double, gold medal in team competition
2000 Gold medal in team competition
2002 Gold medal in team competition
Swedish Championships
1981 Gold medal in double
1982 Gold medal in double
1983 Gold medal in single
1984 Gold medal in single
1986 Gold medal in single, gold medal in double
1987 Silver medal in double
1989 Gold medal in single, silver medal in double
1991 Gold medal in single, gold medal in double
1992 Gold medal in double
1993 Silver medal in double
1994 Silver medal in single, gold medal in double
1996 Gold medal in single
1997 Gold medal in single, silver medal in double
1999 Gold medal in double
2006 Gold medal in single
2010 Gold medal in single
Mùa hè 1970:
Jan-Ove, lúc đó mới là cậu bé 5 tuổi những khát vọng chiến thắng đã luôn trào dâng. Câu nói cửa miệng của cậu là “Tôi sẽ đánh bại tất cả”. Nền tảng sự nghiệp vĩ đại của anh bắt đầu từ đây.
Mùa hè 1974:
Liên đoàn bóng bàn Thụy Điển mời cậu bé Waldner tới dự một trại huấn luyện tại Örebro – một nơi cách xa nhà cậu ở Stockholm tới 250 km. Cậu bé Jan-Ove tỏ ra không vui vì phải xa nhà đến vậy. Vào cuối tuần, mẹ cậu, Marianne, thường đến đón cậu nhưng ngạc nhiên là Waldner lại từ chối về nhà vì “Ngày mai sẽ có một giải đấu, con không muốn bở lỡ”.
Mùa thu 1977:
Ngày 5-10, 3 ngày trước sinh nhật lần thứ 12 của mình, Jan-Ove trình làng tại giải vô địch Quốc gia Thụy Điển. Nạn nhân khốn khổ là Dennis Pettersson, cho đến mãi sau này Dennis vẫn không nuốt trôi được thất bại trước một cậu bé chỉ cao có 140 cm.
Mùa hè 1980:
Jan-Ove Waldner lần đầu tới Trung Quốc. Lúc đó cậu đã nổi danh trên khắp thế giới là thần đồng và có vinh dự thi đấu trước 12,000 khán giả tại giải Thượng Hải mở rộng. Jan-Ove đã thi đấu với hàng loạt tay vợt trẻ của Trung Quốc và thua rất nhiền trận. Nhưng cậu học được nhiều từ những thất bại này, kĩ thuật, chiến thuật được cậu ghi nhớ. Trong lòng cậu luôn tâm niệm “rồi tôi sẽ cho thấy khả năng của mình, sẽ đánh bại bọn họ”.
Mùa xuân 1982:
Tại giải vô địch châu Âu tổ chức ở Budapest, cậu bé 16 tuổi đã đánh bại một trong những thần tượng của mình. Trên đường tiến vào chung kết, cậu đã đánh bại cựu VĐTG Stellan Bengtsson và ngôi sao của nước chủ nhà Tibor Klampar. Lúc đó, Waldner chỉ được xếp thứ 30 tại châu Âu. Tại chung kết, cậu đã buộc người đồng hương Mikael Appelgren phải chiến đấu hết mình mới có được chiến thắng. Waldner, tay vợt trẻ nhất lọt vào chung kết giải vô địch châu Âu, dẫn 2-0 nhưng đã thua sát nút tại séc quyết định và trở thành trung tâm của sự chú ý. Istvan Korpa, HLV đội Đức phát biểu "Tôi chưa bao giờ được chứng kiến một tay vợt toàn diện đến thế. Anh ấy séc vít đa dạng, thay đổi tốc độ trận đấu một cách hoàn hảo và luôn sáng tạo trong suốt trận đấu”.
Mùa xuân 1984:
Jan-Ove lần đầu vô địch giải European Top 12 tổ chức tại Bratislava. Nhưng năm sau này anh đã 6 lần vô địch, 4 lần á quân- một thành tích đi vào lịch sử.
Mùa xuân 1987:
Thụy Điển bị Trung Quốc cho đo ván tại giải vô địch thế giới tổ chức ở New Delhi. Waldner bị cúm và luôn thi đấu trong tình trạn sốt 40° C. Tuy vậy anh vẫn hạ được 2 tay vợt cực mạnh là Chen Longcan và Teng Yi tại tứ kết và bán kết đơn nam. Xi Enting, nhà vô địch thế giới năm 1973 đã phải lắc đầu thán phục: "Làm sao có thể thắng được một tay vợt luôn tấn công mọi đường bóng và luôn thành công?”. Trận chung kết, Waldner dẫn trước 1 séc và 9-3 trong séc 2 trước nhà ĐKVĐ Jiang Jialiang, nhưng thành công đã không đến. Tay vợt 21 tuổi hứa: "Thời của tôi rồi sẽ đến".
Mùa xuân 1989:
Waldner giữ đúng lời hứa. Ở Dortmund, anh trở thành nhà vô địch thế giới, Trung Quốc cực mạnh nhưng Thụy Điển dưới sự lãnh đạo Jan Ove đã thắng 5-0 tại chung kết. Anh vô địch đơn lần đầu khi thắng người đồng hương Jörgen Persson.
Mùa hè 1992:
Waldner vô địch Olympic Barcelona, và các chuyên gia đều đồng ý rằng: "Một tay vợt đến từ hành tinh khác ". Nhà vua Thụy Điển Carl Gustaf, đã nhiệt thành cổ vũ cho Waldner. Jan-Ove trở thành người hùng Quốc gia như kiểu tay vợt tennis Björn Borg (một trong những người bạn thân nhất của anh). Một loạt các tay vợt tài năng của Trung Quốc và thế hệ mới của bóng bàn châu Âu trình làng nhưng Jan-Ove đã đánh bại tất cả..
Mùa xuân 1997:
Anh vô địch đơn nam thế giới lần thứ 2 với một kỷ lục, không thua một séc nào. Cho đến nay, đây là thành tích đánh đơn ấn tượng nhất tại một giải WTTC. Trong trận chung kết gặp cây vợt mới 21 tuổi, Kinh Kong Samsonov, Waldner đã hoàn toàn làm chủ trận đấu và thắng dễ dàng 3-0.
Mùa hè 2004:
Tại Olympic Athens 2004, vào đêm 18-8, tay vợt 39 tuổi này đã loại 3 hạt giống hàng đầu người Trung Quốc ở cả nội dung đơn và đôi. Tân Hoa Xã bình luận: Waldner hoàn thành "nhiệm vụ bất khả thi". Anh đánh bại tay vợt số 2 thế giới Ma Lin và giành suất vào tứ kết. Trước đó, anh đã cùng đồng hương J. Persson loại đôi Kong Linghui/Wang Hao để có mặt ở tứ kết đôi nam. Chung cuộc, anh đứng hạng 4 đơn nam và đây quả là 1 kỷ lục với 1 " ông lão" 39 tuổi.
Mùa hè 2005:
Sau giải WTTC 48th Shanghai 2005, huyền thoại J.O Waldner đã quyết định nói lời chia tay với bóng bàn trên cương vị là một tuyển thủ. Anh đã để lại nhiều tiếc nuối với người hâm mộ Thụy Điển khi không con được xem " Mozart bóng bàn " thi đấu dưới mầu cờ sắc áo quê hương.
Nhìn bảng vàng thành tích sự nghiệp của anh chúng ta choáng ngợp, nhìn anh thi đấu chúng ta kinh ngạc không thể tin được - Người ngoài hành tinh!.
World championships
1983 Silver medal in team competition
1985 Silver medal in team competition
1987 Silver medal in single, silver medal in team competition
1989 Gold medal in single, gold medal in team competition
1991 Silver medal in single, gold medal in team competition
1993 Bronze medal in single, gold medal in team competition
1995 Silver medal in team competition
1997 Gold medal in single (21-0 in games), silver medal in double
1999 Bronze medal in single
2000 Gold medal in team competition
Olympic Games
1988 Final 8 in single, final 8 in double
1992 Gold medal in single, first round in double
1996 Final 16 in single, final 8 in double
2000 Silver medal in single, final 16 in double
2004 Fourth in single, final 8 in double
European Championships
1982 Silver medal in single
1984 Silver medal in double
1986 Gold medal in double, gold medal in team competition
1988 Gold medal in double, gold medal in team competition
1990 Gold medal in team competition
1992 Silver medal in double, gold medal in team competition
1994 Silver medal in single, silver medal in team competition
1996 Gold medal in single, gold medal in double, gold medal in team competition
2000 Gold medal in team competition
2002 Gold medal in team competition
Swedish Championships
1981 Gold medal in double
1982 Gold medal in double
1983 Gold medal in single
1984 Gold medal in single
1986 Gold medal in single, gold medal in double
1987 Silver medal in double
1989 Gold medal in single, silver medal in double
1991 Gold medal in single, gold medal in double
1992 Gold medal in double
1993 Silver medal in double
1994 Silver medal in single, gold medal in double
1996 Gold medal in single
1997 Gold medal in single, silver medal in double
1999 Gold medal in double
2006 Gold medal in single
2010 Gold medal in single