Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp
Phần 13 : Mút SRIVER mới G2 FX : hơi chậm và có độ kiểm soát cao với nhiều xoáy
2/2006
Hôm nay (các bạn cần lưu ý thời điểm diễn ra cuộc phỏng vấn này : 2/2006 – ND) chuyên gia về nguyên liệu và sản phẩm của Butterfly Tasei Imamura sẽ giới thiệu loại mút SRIVER G2 FX. Ông không chỉ nêu ra sự khác biệt của nó với mút SRIVER G2 "thông thường", mà ông còn giải thích lý do tại sao Timo Boll lại sử dụng mút Sriver cổ điển – loại mút thành công nhất qua các thời kỳ. Và bạn sẽ nhận biết cái gì đã sinh ra thế hệ mút BRYCE mới . Mời các bạn đọc !
Ông Imamura, trong mùa giải sắp tới 2006/2007 Butterfly sẽ trình bày loại mút mới SRIVER G2 FX. Bên cạnh những SRIVER FX và BRYCE FX thì hiện đây là loại mút FX thứ 3 trong chương trình. Sự khác biệt giữa SRIVER G2 và SRIVER với G2 FX mới là gì?
Điều này cũng tương tự như mối liên quan giữa SRIVER và SRIVER FX. Một cách ngắn gọn : đó là lớp lót mềm hơn. Khi phát triển một loại mút mới, đầu tiên chúng tôi nhắm vào các cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Mút SRIVER G2 là một loại mút dành cho các VĐV thành tích cao. Tất nhiên những người chơi ở trình độ cơ bản vẫn có thể sử dụng nó tốt, nhưng không phải ai cũng làm quen được với nó. Và đó là lý do tại sao - trong bước thứ 2 - chúng tôi đưa ra một phiên bản FX trên thị trường, có lớp lót mềm hơn và hơi chậm, và có độ kiểm soát cao hơn.
Lớp lót của SRIVER G2 FX mềm hơn so với SRIVER G2 nhiều không?
Cũng giống như SRIVER. Khoảng 10%.
Lớp lót FX có khác với lớp lót thông thường về hiệu quả của keo tốc độ?
Nó mềm hơn và xốp hơn và do đó nó ngấm keo tốc độ vào nhiều hơn. Ảnh hưởng của keo tốc độ là rõ ràng hơn. Có thể nói rõ là: đưa cùng một lượng keo lên SRIVER G2 FX và SRIVER G2, thì hiệu quả bắn bóng ra của SRIVER G2 FX lớn hơn.
SRIVER G2 đã có mặt trên thị trường trong 2 năm nay. Nó như là một bước trung gian giữa SRIVER và BRYCE. Các cầu thủ đón nhận nó như thế nào?
Petr Korbel sử dụng nó trên cả hai mặt vợt, Zoran Primorac dùng trên một mặt. Timo Boll đã thử nghiệm nó, nhưng hiện gắn bó với SRIVER cổ điển - phiên bản L. Trong toàn bộ các VĐV hợp đồng của chúng tôi, phần lớn hiện nay sử dụng BRYCE. Đây là thế hệ BRYCE của chúng tôi. Bằng cách này, tôi không có ý muốn nói rằng BRYCE là tốt hơn. Điều đó do cảm nhận cá nhân khác nhau của các cầu thủ. Mọi người đều có cảm giác khác nhau đối với quả bóng. Và chỉ cần một cầu thủ đặc biệt như Timo Boll tin tưởng sử dụng SRIVER cổ điển, đó là tất cả những gì có thể nói về chất lượng của dòng mút SRIVER. Tuy nhiên trở lại phân khúc những người chơi nghiệp dư, chúng ta có thể nhận thấy rằng nhiều người sử dụng SRIVER đã chuyển sang SRIVER G2. Nó nhanh hơn. Và với phiên bản FX mới này - chúng tôi cung cấp thậm chí còn nhiều hơn những lựa chọn mang tính cá nhân.
Ông nói nó nhanh hơn. Ông có thể mô tả điều đó một cách chi tiết hơn ?
Nhanh hơn một cách rõ ràng sau khi chúng ta có những kích thích (keo tăng lực – ND). Thật khó để nói chính xác về tỷ lệ phần trăm. Nhưng khi thực hiện cú đánh xoáy lên, góc độ của vợt phải được thay đổi rõ rệt, phải khép vợt nhiều hơn. Bên cạnh đó SRIVER G2 tạo ra xoáy nhiều hơn là SRIVER thông thường. Nhưng bởi vì một số VĐV chơi SRIVER đã thử nghiệm G2 cho rằng nó quá nhanh, hiện chúng tôi cung cấp thêm phiên bản G2 -FX.
Ông đã nói về thế hệ Bryce được sinh ra ở Butterfly. Một loại mút đã được giới thiệu chính thức vào năm 1998 và đã có một câu chuyện thành công rõ ràng trong 8 năm qua. Nó đi đến thành công này như thế nào?
Mút này đã được thử nghiệm trong năm 1997 tại WCC ở Manchester lần đầu tiên trong các trận đấu bởi một số cầu thủ, trong đó có Timo Boll. Nhưng VĐV sử dụng BRYCE hàng đầu của chúng tôi là Werner Schlager. Anh ta đã sử dụng BRYCE ngay từ đầu. Nhiều cầu thủ sau đó cũng sử dụng. Ai chuyển từ SRIVER sang BRYCE đều gặp những khó khăn trong thời gian đầu, thậm chí cả các cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Nhưng bạn có thể vượt qua điều đó với thái độ như Werner đã có : "Tôi muốn làm chủ mặt mút này". Nhìn tổng thể sự khởi đầu trong 3 năm đầu tiên đã diễn ra không dễ dàng, vì sự thay đổi là rất lớn và nhiều người cho rằng BRYCE quá nhanh. Trong thời gian đó BYRCE được sử dụng bởi nhiều người, thậm chí cả các cầu thủ còn rất trẻ. Đặc biệt là BYRCE FX, phiên bản mềm hơn, đã được chấp nhận tốt. BRYCE ngày càng phát triển, một sự phát triển rất tích cực.
Trở lại với Timo Boll. Anh ta chơi SRIVER cổ điển với phiên bản L. Mút này được đưa ra thị trường vào cuối những năm 60 – tức là đã gần 40 năm tuổi. Tất nhiên nó đã được cải thiện nhiều lần qua các năm, nhưng cấu trúc cơ bản vẫn giữ nguyên, có phải vậy không ?
Vâng, đúng thế và điều này làm cho chúng tôi rất tự hào. Đối với nhiều cầu thủ và thậm chí cả các huấn luyện viên, cho rằng vật liệu đã trở nên nhanh hơn nhiều, nhưng thực sự không phải như vậy. Có thể chỉ một vài phần trăm. Cái đã trở nên nhanh hơn chính là các cầu thủ. Các cầu thủ hàng đầu thế giới của những năm 70 có kỹ thuật hoàn toàn khác so với các cầu thủ hàng đầu hiện nay - gia tốc cánh tay của họ là thấp hơn nhiều. Một thứ đã thay đổi các trận đấu khá nhiều nữa là keo tốc độ. Nhưng sự gia tăng tốc độ bằng keo tăng lực chỉ khoảng 4 hoặc 5%. Và các loại cốt vợt cũng không trở nên nhanh hơn. Hãy lấy cốt Carbon đầu tiên của chúng tôi làm ví dụ. Cấu trúc cơ bản của TAMCA CARBON GERGELY, một loại cốt đã thành công rực rỡ, vẫn là cơ sở cho các cốt Carbon mới SCHLA-GER CARBON OFF hoặc PRIMORAC CARBON OFF. Nó như là người mẹ với những đứa trẻ. Cũng như vậy với SRIVER. Timo Boll sử dụng nó vì một lý do. Tất nhiên anh ta chơi bóng rất nhanh, nhưng đặc biệt là dựa vào độ xoáy. Và SRIVER cung cấp sự cân bằng hoàn hảo giữa xoáy và tốc độ. Do đó nó đã trở thành loại mút thành công nhất của mọi thời đại. Và nó vẫn được cập nhật và được sử dụng trong tất cả các tầng lớp nghiệp dư.
Xu hướng phát triển của mút là gì?
Bám và nhanh hơn. Tuy nhiên, có một trở ngại lớn: ITTF vẫn chưa ban hành quy định của mình liên quan đến tương lai của keo tốc độ, có thể bắt đầu trong năm 2007. Điều này không phải là dễ dàng cho tất cả các nhà sản xuất bóng bàn. Sự phát triển tương lai phụ thuộc rất nhiều vào thực tế rằng keo tốc độ là hợp pháp hay không. Và bởi vì hiện nay keo tăng lực được sử dụng rất nhiều trong thị phần nghiệp dư ngay cả những cầu thủ rất trẻ, thì một lệnh cấm keo tăng lực sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Và để tránh những bất ngờ, chúng tôi đã thăm dò theo 3 hướng, mà tôi có thể cho bạn biết.
Cảm ơn ông rất nhiều, thưa ông Imamura ! .
(Hết phần 13 - Còn tiếp)
Phần 13 : Mút SRIVER mới G2 FX : hơi chậm và có độ kiểm soát cao với nhiều xoáy
2/2006
Hôm nay (các bạn cần lưu ý thời điểm diễn ra cuộc phỏng vấn này : 2/2006 – ND) chuyên gia về nguyên liệu và sản phẩm của Butterfly Tasei Imamura sẽ giới thiệu loại mút SRIVER G2 FX. Ông không chỉ nêu ra sự khác biệt của nó với mút SRIVER G2 "thông thường", mà ông còn giải thích lý do tại sao Timo Boll lại sử dụng mút Sriver cổ điển – loại mút thành công nhất qua các thời kỳ. Và bạn sẽ nhận biết cái gì đã sinh ra thế hệ mút BRYCE mới . Mời các bạn đọc !
Ông Imamura, trong mùa giải sắp tới 2006/2007 Butterfly sẽ trình bày loại mút mới SRIVER G2 FX. Bên cạnh những SRIVER FX và BRYCE FX thì hiện đây là loại mút FX thứ 3 trong chương trình. Sự khác biệt giữa SRIVER G2 và SRIVER với G2 FX mới là gì?
Điều này cũng tương tự như mối liên quan giữa SRIVER và SRIVER FX. Một cách ngắn gọn : đó là lớp lót mềm hơn. Khi phát triển một loại mút mới, đầu tiên chúng tôi nhắm vào các cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Mút SRIVER G2 là một loại mút dành cho các VĐV thành tích cao. Tất nhiên những người chơi ở trình độ cơ bản vẫn có thể sử dụng nó tốt, nhưng không phải ai cũng làm quen được với nó. Và đó là lý do tại sao - trong bước thứ 2 - chúng tôi đưa ra một phiên bản FX trên thị trường, có lớp lót mềm hơn và hơi chậm, và có độ kiểm soát cao hơn.
Lớp lót của SRIVER G2 FX mềm hơn so với SRIVER G2 nhiều không?
Cũng giống như SRIVER. Khoảng 10%.
Lớp lót FX có khác với lớp lót thông thường về hiệu quả của keo tốc độ?
Nó mềm hơn và xốp hơn và do đó nó ngấm keo tốc độ vào nhiều hơn. Ảnh hưởng của keo tốc độ là rõ ràng hơn. Có thể nói rõ là: đưa cùng một lượng keo lên SRIVER G2 FX và SRIVER G2, thì hiệu quả bắn bóng ra của SRIVER G2 FX lớn hơn.
SRIVER G2 đã có mặt trên thị trường trong 2 năm nay. Nó như là một bước trung gian giữa SRIVER và BRYCE. Các cầu thủ đón nhận nó như thế nào?
Petr Korbel sử dụng nó trên cả hai mặt vợt, Zoran Primorac dùng trên một mặt. Timo Boll đã thử nghiệm nó, nhưng hiện gắn bó với SRIVER cổ điển - phiên bản L. Trong toàn bộ các VĐV hợp đồng của chúng tôi, phần lớn hiện nay sử dụng BRYCE. Đây là thế hệ BRYCE của chúng tôi. Bằng cách này, tôi không có ý muốn nói rằng BRYCE là tốt hơn. Điều đó do cảm nhận cá nhân khác nhau của các cầu thủ. Mọi người đều có cảm giác khác nhau đối với quả bóng. Và chỉ cần một cầu thủ đặc biệt như Timo Boll tin tưởng sử dụng SRIVER cổ điển, đó là tất cả những gì có thể nói về chất lượng của dòng mút SRIVER. Tuy nhiên trở lại phân khúc những người chơi nghiệp dư, chúng ta có thể nhận thấy rằng nhiều người sử dụng SRIVER đã chuyển sang SRIVER G2. Nó nhanh hơn. Và với phiên bản FX mới này - chúng tôi cung cấp thậm chí còn nhiều hơn những lựa chọn mang tính cá nhân.
Ông nói nó nhanh hơn. Ông có thể mô tả điều đó một cách chi tiết hơn ?
Nhanh hơn một cách rõ ràng sau khi chúng ta có những kích thích (keo tăng lực – ND). Thật khó để nói chính xác về tỷ lệ phần trăm. Nhưng khi thực hiện cú đánh xoáy lên, góc độ của vợt phải được thay đổi rõ rệt, phải khép vợt nhiều hơn. Bên cạnh đó SRIVER G2 tạo ra xoáy nhiều hơn là SRIVER thông thường. Nhưng bởi vì một số VĐV chơi SRIVER đã thử nghiệm G2 cho rằng nó quá nhanh, hiện chúng tôi cung cấp thêm phiên bản G2 -FX.
Ông đã nói về thế hệ Bryce được sinh ra ở Butterfly. Một loại mút đã được giới thiệu chính thức vào năm 1998 và đã có một câu chuyện thành công rõ ràng trong 8 năm qua. Nó đi đến thành công này như thế nào?
Mút này đã được thử nghiệm trong năm 1997 tại WCC ở Manchester lần đầu tiên trong các trận đấu bởi một số cầu thủ, trong đó có Timo Boll. Nhưng VĐV sử dụng BRYCE hàng đầu của chúng tôi là Werner Schlager. Anh ta đã sử dụng BRYCE ngay từ đầu. Nhiều cầu thủ sau đó cũng sử dụng. Ai chuyển từ SRIVER sang BRYCE đều gặp những khó khăn trong thời gian đầu, thậm chí cả các cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Nhưng bạn có thể vượt qua điều đó với thái độ như Werner đã có : "Tôi muốn làm chủ mặt mút này". Nhìn tổng thể sự khởi đầu trong 3 năm đầu tiên đã diễn ra không dễ dàng, vì sự thay đổi là rất lớn và nhiều người cho rằng BRYCE quá nhanh. Trong thời gian đó BYRCE được sử dụng bởi nhiều người, thậm chí cả các cầu thủ còn rất trẻ. Đặc biệt là BYRCE FX, phiên bản mềm hơn, đã được chấp nhận tốt. BRYCE ngày càng phát triển, một sự phát triển rất tích cực.
Trở lại với Timo Boll. Anh ta chơi SRIVER cổ điển với phiên bản L. Mút này được đưa ra thị trường vào cuối những năm 60 – tức là đã gần 40 năm tuổi. Tất nhiên nó đã được cải thiện nhiều lần qua các năm, nhưng cấu trúc cơ bản vẫn giữ nguyên, có phải vậy không ?
Vâng, đúng thế và điều này làm cho chúng tôi rất tự hào. Đối với nhiều cầu thủ và thậm chí cả các huấn luyện viên, cho rằng vật liệu đã trở nên nhanh hơn nhiều, nhưng thực sự không phải như vậy. Có thể chỉ một vài phần trăm. Cái đã trở nên nhanh hơn chính là các cầu thủ. Các cầu thủ hàng đầu thế giới của những năm 70 có kỹ thuật hoàn toàn khác so với các cầu thủ hàng đầu hiện nay - gia tốc cánh tay của họ là thấp hơn nhiều. Một thứ đã thay đổi các trận đấu khá nhiều nữa là keo tốc độ. Nhưng sự gia tăng tốc độ bằng keo tăng lực chỉ khoảng 4 hoặc 5%. Và các loại cốt vợt cũng không trở nên nhanh hơn. Hãy lấy cốt Carbon đầu tiên của chúng tôi làm ví dụ. Cấu trúc cơ bản của TAMCA CARBON GERGELY, một loại cốt đã thành công rực rỡ, vẫn là cơ sở cho các cốt Carbon mới SCHLA-GER CARBON OFF hoặc PRIMORAC CARBON OFF. Nó như là người mẹ với những đứa trẻ. Cũng như vậy với SRIVER. Timo Boll sử dụng nó vì một lý do. Tất nhiên anh ta chơi bóng rất nhanh, nhưng đặc biệt là dựa vào độ xoáy. Và SRIVER cung cấp sự cân bằng hoàn hảo giữa xoáy và tốc độ. Do đó nó đã trở thành loại mút thành công nhất của mọi thời đại. Và nó vẫn được cập nhật và được sử dụng trong tất cả các tầng lớp nghiệp dư.
Xu hướng phát triển của mút là gì?
Bám và nhanh hơn. Tuy nhiên, có một trở ngại lớn: ITTF vẫn chưa ban hành quy định của mình liên quan đến tương lai của keo tốc độ, có thể bắt đầu trong năm 2007. Điều này không phải là dễ dàng cho tất cả các nhà sản xuất bóng bàn. Sự phát triển tương lai phụ thuộc rất nhiều vào thực tế rằng keo tốc độ là hợp pháp hay không. Và bởi vì hiện nay keo tăng lực được sử dụng rất nhiều trong thị phần nghiệp dư ngay cả những cầu thủ rất trẻ, thì một lệnh cấm keo tăng lực sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Và để tránh những bất ngờ, chúng tôi đã thăm dò theo 3 hướng, mà tôi có thể cho bạn biết.
Cảm ơn ông rất nhiều, thưa ông Imamura ! .
(Hết phần 13 - Còn tiếp)
Last edited: